- Người Đô Thị | 22:31 | Thứ ba, 27/02/2018 -
LTS: Dựng lại niềm tin cũng là chủ đề cuộc tọa đàm mùa xuân do Người Đô thị tổ chức. Thành phần tham dự đến từ nhiều khu vực, gồm chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An Nguyễn Sự, nhạc sĩ Dương Thụ - Giám đốc Dự án chuỗi quán Cà Phê Thứ Bảy (trong đó có salon văn hóa Cà phê Thứ Bảy); TS Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, ông Huỳnh Tấn Vinh - Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Đà Nẵng, Tổng Giám đốc AtlasIndustries Vietnam Joe Woolf và bà Phạm Thị Hương Giang (Jang Kều), sáng lập và điều hành dự án Nhà chống lũ.
Niềm tin là một giá trị tinh thần cốt lõi của con người, nó quan trọng đến mức dẫn tới nhận thức “mất niềm tin là mất tất cả”. Trong bài phát biểu đầu năm mới 2018, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres kêu gọi các nhà lãnh đạo quốc gia hãy nỗ lực xây dựng lại niềm tin của người dân nước mình.
Và, “Khủng hoảng niềm tin” đang thực sự xảy ra trong xã hội Việt Nam, trên mọi lĩnh vực công quyền, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, gia đình… Nhiều hiện tượng tiêu cực trong các mối quan hệ Nhà nước với nhân dân, dân với dân, doanh nghiệp với doanh nghiệp và với khách hàng, thầy với trò, bác sĩ với bệnh nhân, thành viên trong gia đình với nhau, đã khiến cho niềm tin trong xã hội bị suy giảm, đổ vỡ, đang như hồi chuông báo động…
Kỳ 1: Duy cảm hay duy lý?
Nhạc sĩ Dương Thụ nhìn niềm tin như một trạng thái tâm lý hiện hữu trong mỗi con người. Chồng tin vợ. Bằng hữu tin nhau. Tuy nhiên, trải nghiệm cá nhân mách bảo xã hội không còn nhiều người tin vào những điều cao cả. Nhiều người tử tế phải tự bôi xấu mình, giấu mình đi để tránh bị miệng đời làm tổn thương.
Cũng bởi “miệng đời” mà ông Thụ đau đớn bán ngôi nhà ngoại ô mà mình sống trong hai thập niên. Nơi ông ở từng rất yên tĩnh. Chiều buông cò đậu bờ rào. Sau khi người ta san lấp mặt bằng, xây nhà trọ cho mướn. Những người hàng xóm mới có thú giải trí hát karaoke với âm lượng khuyếch đại, khiến ông không thể tập trung làm việc. Khi ông đề nghị họ giảm bớt âm lượng thì câu trả lời nhận được là “không nghe được thì dọn đi nơi khác”. Họ tin “âm lượng lớn mới hay”.
Niềm tin còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức, vốn hiểu biết, tích lượng văn hóa của từng cá nhân. Niềm tin rất chủ quan. Nó có thể đúng với người này mà sai với người khác.Vậy nên niềm tin đôi khi cũng rất nguy hiểm nếu niềm tin đó là sai trái ở chính những người có trách nhiệm đối với sự phát triển của cộng đồng và rộng hơn là cả quốc gia. Ông Thụ cho rằng chủ đề đặt ra rất khó thảo luận vì niềm tin đi cùng sự trung thực: "Nói thật về chuyện tin hay không tin là động chạm đến những vấn đề nhạy cảm, phiền toái lắm. Mỗi người hãy trở về với chính mình. Tin cái gì là tùy thuộc vào chính mình. Không đẽo cày giữa đường. Người chính trực thì phải làm việc. Kéo xe bò cũng được. Cuốc đất cũng được…”.
Ông Thụ không kéo xe bò, cũng không cuốc đất. Ông làm nhạc. Ông tin vào âm nhạc có thể hòa giải được. Tháng 4/1994, ông đã làm chương trình “Nửa Thế kỷ Bài hát Việt Nam”,một chương trình lớn tầm quốc gia lần đầu tiên tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của đủ các dòng nhạc: Tiền chiến, Lãng mạn, nhạc Sài Gòn trước 75, nhạc Kháng Chiến, Cách mạng, nhạc thời Hậu chiến,và nhạc Tình ca mới, giữa lúc về văn hóa có chuyện cấm đoán rất nặng nề. Ông tin là mình đúng, Lòng tin ông đã được đền đáp. Mặc dù không có chủ trương, nhưng lãnh đạo Hội thời đó đã ủng hộ sáng kiến của ông để Hội đứng ra tổ chức, lại được doanh nghiệp lớn tài trợ.
Chương trình dù bị một số người chống đối quyết liệt, những nó vẫn diễn ra 3 đêm tai Nhà hát Lớn Hà Nội và thành công rất tốt đẹp Từ năm 2009, ông làm chương trình Điều còn mãi, một chương trình định kỳ vào 2/9 hàng năm với Vietnamnet (VNN đứng ra tổ chức và xin tài trợ). Đây là Dự án âm nhạc lớn thứ hai của ông sau “Nửa Thế kỷ bài hát Việt Nam” mà ông vừa là tác giả, vừa là Giám đốc nghệ thuật vừa là người biên tập.
Ở Dự án này, biên tập công phu và toàn diện hơn (có cả những thành quả của Việt nam về khí nhạc chứ không phải chỉ có ca khúc). Sau năm năm thực hiện , ông trao lại chương trình cho Vietnamnet. Chương trình này rất lớn với sự tham gia của các nghệ sĩ hàng đầu cùng Dàn nhạc giao hưởng quốc gia và kéo dài trong nhiều năm, lại không phải do chủ trương của Bộ Văn Hóa, của Hội nhạc sĩ nên không được cấp kinh phí, thế mà vẫn làm được bởi ông tin vào sự đúng đắn của mình, vào Vietnamnet, vào sự ủng hộ của doanh nghiệp, của nghệ sĩ. Tiền doanh nghiệp tài trợ đủ để trang trải những chi phí tối thiểu. Ca sĩ chỉ nhận cát-sê tượng trưng. Ông tin họ và họ tin ông. Còn ông làm được bởi ông còn có niềm tin vào con người bởi ông luôn xem đất nước là của mình. Ông phản đối cách nghĩ “phó thác đất nước cho Nhà nước”, không làm gì cả rồi ngồi chửi đổng mỗi khi Nhà nước làm sai chuyện này, chuyện khác. Tư tưởng dựa dẫm cũng là một cách tự đánh mất niềm tin.
Cảm ơn nhạc sĩ đã trình bày một khía cạnh rất quan trọng, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận xét vế thứ hai của niềm tin là thay đổi theo thời gian, không chỉ phụ thuộc vào sự trưởng thành của mỗi cá nhân mà còn bị chi phối bởi bối cảnh xã hội, môi trường sống. Thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp do yêu cầu công việc, bà Chi Lan cho rằng 50% thành-bại của khu vực này đến từ nỗ lực chủ quan, phần còn lại đến từ môi trường chung mà bà cho rằng có sức “ảnh hưởng ghê gớm”.
Câu chuyện Nhà nước hoàn trả căn nhà 34 Hoàng Diệu (Hà Nội) cho gia đình ông Trịnh Văn Bô vẫn chưa có hồi kết sau khi bà quả phụ Hoàng Thị Minh Hồ qua đời. Nhà tư sản dân tộc đã hiến rất nhiều tài sản cho nền dân chủ cộng hòa non trẻ, từ bỏ cuộc sống đủ đầy tại thủ đô để đi theo kháng chiến với niềm tin vào cuộc cách mạng được dẫn dắt bởi Cụ Hồ. Kết thúc chiến tranh, gia đình nhiều lần trình bày nguyện vọng chính đáng lấy lại ngôi nhà 34 Hoàng Diệu mà gia đình chỉ cho nhà nước mượn chứ không phải hiến. Nhiều lãnh đạo cấp cao cũng đồng thuận bằng văn bản. Thế nhưng cho đến nay, Nhà nước vẫn chưa danh chính ngôn thuận trả lại ngôi nhà cho gia đình ông Trịnh Văn Bô. Nhìn vào cách xử sự trong trường hợp này của những nhà lãnh đạo ở nhiều thời kỳ và nhiều cấp khác nhau, dư luận hồ nghi vào hệ thống điều hành đất nước. Niềm tin của giới doanh nhân vào đối xử của nhà nước thêm một lần bị chấn động nặng nề.
Thời kỳ cải tạo công thương ở miền Bắc phá vỡ hệ thống kinh tế tồn tại trước đó, để lại khủng hoảng kéo dài nhiều năm. Nhưng vì chiến tranh nên những trục trặc bị che lấp.
Sau 1975, kịch bản ấy tiếp tục được lặp lại ở miền Nam. Ý thức hệ dẫn dắt niềm tin rằng chủ nghĩa xã hội ưu việt hơn. Thực ra lúc ấy cũng có những con người trong hệ thống nghi ngờ chủ trương cải tạo công thương nghiệp. Tiếc rằng họ là nhóm thiểu số, buộc phải chấp nhận ý kiến tập thể. Hoặc có thể vì lợi ích thúc đẩy. Cũng không loại trừ tâm lý sợ mếch lòng lãnh đạo cấp cao. Duy ý chí bao trùm thập niên hậu chiến đẩy nền kinh tế đến bờ vực thảm họa. Hệ thống thừa nhận sai lầm, tuyên bố Đổi mới.
Công cuộc Đổi mới ban đầu làm được nhiều việc. Thay đổi thể chế với doanh nghiệp Nhà nước. Ra Luật Doanh nghiệp, trả lại quyền tự do kinh doanh cho người dân mà Nhà nước “cầm nhầm”. Nỗ lực thúc đẩy thay đổi dù chậm chạp vẫn tạo ra niềm tin. Nhưng đến một ngưỡng nhất định thì xã hội dần dần nhận ra “nói vậy mà không phải vậy”. Nhiều chính sách tốt không được thực hiện. Vẫn còn đó sự giật cục hoặc nửa vời trong chủ trương. Tâm lý dè chừng càng về sau càng bộc lộ rõ, thể hiện qua những mâu thuẫn trong nhiều văn kiện quan trọng. Nghị quyết mới nhất của Đảng thêm cho khu vực tư nhân một từ “quan trọng” vào tiền tố “động lực” mà rón rén mãi mới đưa được vào nghị quyết nhưng vẫn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là lực lượng vật chất để thực hiện… Nghĩa là khu vực tư nhân đừng tưởng sẽ được bình đẳng để phát triển và trở thành động cơ chủ lực kéo nền kinh tế.
Trong khi đó, lực lượng chủ đạo vẫn tiếp tục duy trì “truyền thống” không hiệu quả. Chỉ riêng 12 dự án thua lỗ tại Bộ Công thương đã khiến Chính phủ đau đầu. Tiếp đến là danh mục dài hơn mà bà Chi Lan tin rằng nếu rờ hết khu vực DNNN thì chỗ nào cũng có chuyện. Sau khi tăng giá điện, EVN bị phát hiện giấu khoản lãi gần 5.000 tỉ đồng. Hàng loạt lãnh đạo, cựu lãnh đạo ở PVN bị khởi tố. Quá nhiều bằng chứng như vậy mà vẫn khẳng định DNNN là chủ đạo thì nền kinh tế sẽ như thế nào?
Bà Chi Lan hoài nghi có sự nhập nhằng trong khái niệm “động lực quan trọng”, hàm ý khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hơn là doanh nghiệp tư nhân trong nước. Thực tế là FDI được nhận những ưu đãi khủng mà trong nước chỉ doanh nghiệp thân hữu mới có. Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc quá nhiều vào FDI, chiếm đến 72% kim ngạch. Phát triển công nghiệp cũng vậy.Khu vực tư nhân nội địa dẫu chiếm số đông nhưng quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ, đóng góp chỉ 9% vào GDP. Lệ thuộc vào khối FDI tiềm ẩn những rủi ro. Không loại trừ khả năng đến một thời điểm nào đó, có những vùng đất mới mang lại những ưu đãi và niềm tin tốt hơn, họ ra đi thì nền kinh tế hơn 90 triệu dân còn lại gì?
Những năm gần đây, nhiều chủ doanh nghiệp thành đạt ở quy mô trung bình hoặc tương đối lớn đã bán tài sản, ra nước ngoài định cư. Nếu ở lại cũng chỉ trên danh nghĩa bởi phần lớn tài sản đã chuyển qua biên giới. Họ cũng sẵn sàng ra đi khi tình thế bất lợi. Bà Chi Lan cảm thán làn sóng thiên di là “nỗi đau lớn”, biểu hiện rõ nét sự đổ vỡ niềm tin của thế hệ doanh nhân bươn chải sau hơn ba thập niên Đổi mới.
Nhìn lại mấy chục năm làm việc tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, điều khiến bà Chi Lan day dứt là sư gắn kết, tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo. Nguyên nhân cũng do thiếu niềm tin lẫn nhau. Nền móng của niềm tin là hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng, bảo vệ những người lương thiện. Giữa ba khu vực doanh nghiệp được đối xử rất khác nhau làm sao có thể hợp tác làm ăn bình đẳng với nhau được.Khi bên vi phạm hợp đồng đã ký hoặc thậm chí lừa đảo mà không bị trừng phạt, mà vẫn có kênh để chạy chọt, giành phần thắng, liệu rằng còn mấy ai dám đi buôn có bạn. Có chăng là uy tín cá nhân giữa các doanh chủ được thử thách qua nhiều năm làm ăn. Khi doanh nghiệp rơi vào tay người khác, chưa chắc đôi bên có thể tiếp tục hợp tác.
Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Nhắc lại lời một người thầy dạy mình cách nay hơn năm thập niên tại Đại học Ngoại thương, bà Chi Lan giải thích “danh” chính là chữ tín, là niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Xây dựng thương hiệu là một quá trình dài hơi, tốn kém chi phí của doanh nghiệp nhưng lại dễ dàng bị xói mòn bởi sự thắng thế của hàng giả, hàng nhái, của sự cạnh tranh bằng những thủ đoạn gian dối. Niềm tin của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất cứ tuột dốc hoài. Lời than cửa miệng của các bà nội trợ là “ăn cái gì cũng sợ độc hại, mua cái gì cũng sợ đồ dởm”.
Có một nghịch lý là nhiều chủ sở hữu phát triển các sản phẩm mới không dám đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ. Họ lo ngại …mất bí quyết trước khi được Nhà nước công nhận!. Ngay cả cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chính thống mà người ta cũng không dám tin. Một trường hợp cụ thể là con trai của bà Chi Lan đầu tư nghiên cứu một loại bếp dành cho người nghèo. Sau khi thị trường chấp nhận, tổ chức khá tốt hệ thống sản xuất, và mất gấp ba thời gian theo luật định để làm thủ tục, anh mới đăng ký được quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm của mình.
Dựng lại niềm tin - kỳ 2: Kiểm soát quyền lực
22:47 | Thứ tư, 28/02/2018
Hai góc nhìn bổ sung lẫn nhau đưa chủ đề thảo luận dịch dần về phía hệ thống mà có lẽ người am tường nhất trong số khách mời không ai khác chính là ông Nguyễn Sự - Nguyên bí thư thành ủy Hội An. Ông được nhiều người nhận xét là “trẻ trung, thanh thản hơn” sau quyết định về hưu trước tuổi.
“Đánh tham nhũng, cần nhưng chưa đủ”
Sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Sự gắn liền với với nhiều quyết sách bảo tồn đô thị cổ bên bờ sông Hoài, điển hình là bản quy chế quản lý mà ông ký trên cương vị chủ tịch thị xã nhận đã được sự ủng hộ của tỉnh, các ngành TW và của UNESCO.
Trước đó, bản dự thảo quy chế từng năm lần bảy lượt lấy ý kiến các bộ ngành liên quan mà chưa đi đến được kết luận cuối cùng và vẫn cứ “tiếp tục nghiên cứu”. Hội An không chờ được, việc quản lý đi sản cũng không chờ được, ông Nguyễn Sự quyết định ký ban hành quy chế, dù biết sai quy trình, vượt thẩm quyền nhưng ông vẫn ký. Nghĩa là ông sẵn sàng trả giá bằng sinh mệnh chính trị để bảo lưu niềm tin của cá nhân mình, rằng việc mình làm mang lại lợi ích cho địa phương, cho nhân dân. Giờ đây, ông Nguyễn Sự đã rời hệ thống, nhưng bản quy chế ấy vẫn còn đó, tiếp tục được bổ sung cho phù hợp thực tế và được người dân Hội An duy trì thực hiện. “ Nếu mình hành động vì lợi ích thực sự của nhân dân, tôi tin cấp trên sẽ ủng hộ”, ông Sự khẳng định.
Một trong các yếu tố để hình thành nên giá trị của xã hội là đức tin, là tín ngưỡng. Đức tin, tín ngưỡng khác với mê tín dị đoan. Trong chừng mực nào đó tín ngưỡng còn là giá trị của cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống bền vững. Tín ngưỡng góp phần giúp cho con người hướng thiện.
Có một thời gian dài các cơ sở tín ngưỡng bị xem như tàn dư của chủ nghĩa phong kiến cần phải phá bỏ. Mái đình làng ở nông thôn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của người nông dân. Đó là biểu tượng của thiết chế quyền lực, văn hóa, tín ngưỡng. Đình làng là nơi thờ thành hoàng, tiền hiền, hậu hiền; là nơi nhắc nhở mọi người luôn ghi nhớ những bậc tiền nhân đã có công với làng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, góp phần làm cho cộng đồng gắn bó với nhau, tin tưởng nhau hơn và có vai trò quan trọng giáo dục đạo đức trong cộng đồng làng.
Đạo đức bổ khuyết cho luật pháp trong quản trị quốc gia. Pháp luật điều chỉnh hành vi bằng trừng phạt. Còn đạo đức xã hội, những ràng buộc theo hương ước có chức năng khuyến thiện. Luật pháp không bắt buộc người ta phải cứu giúp người bị nạn dọc đường. Nhưng nếu làm lơ, những người có lương tâm sẽ bị cắn rứt. Chính đó là Đức tin.
Đức tin bị coi thường thì giá trị xã hội bị đảo lộn. Những điều bình thường trở thành bất thường. Quan chức sống “ngay ngắn” - cách nói của người Quảng Nam hàm ý về sự tử tế, đàng hoàng - thì bị xem xét theo hai khuynh hướng, hoặc giả “chết” hoặc không bình thường. Vẫn còn rất nhiều người trong bộ máy sống ngay ngắn, có lòng tự trọng và có trách nhiệm với công việc và nhân dân. Hoài nghi là cần thiết. Nhưng sẽ rất nguy hiểm khi đánh mất niềm tin.
Đề cập đến thực trạng con cháu quan chức, những người không có năng lực được bồng bế lên “ghế” một cách phổ biến, ông Nguyễn Sự cho rằng chính những trường hợp cụ thể, sự việc cụ thể đã làm cho dư luận thui chột niềm tin vào hệ thống, dẫn tới phủ nhận “tất cả con cán bộ lãnh đạo đều không có năng lực”.
Bản chất việc lãnh đạo “lót ổ” cho con, cháu, người thân vào bộ máy để nhanh chóng lên làm lãnh đạo là một dạng thức tham nhũng gián tiếp, tham nhũng quyền lực, tước bỏ cơ hội của những người có năng lực.
Về phần tham nhũng trực tiếp, ông Nguyễn Sự phản đối quyết liệt quan điểm tham nhũng trong bộ máy do thúc bách về kinh tế. Theo ông, anh em cán bộ lương thấp chỉ có điều kiện ăn cắp vặt. Cán bộ tham nhũng đều là những người có chức vụ. Bạc tỉ với họ chỉ là tiền lẻ. “Thế mà người ta vẫn sống nhởn nhơ, vẫn tỏ ra đạo đức. Đôi lúc còn giở giọng dạy bảo thiên hạ” - ông Nguyễn Sự gay gắt.
Trong chiến dịch chống tham nhũng, ông Sự bày tỏ thái độ ủng hộ, bởi theo ông điều làm cho người dân mất niềm tin lớn nhất hiện nay là tình trạng tham ô, nhũng nhiễu trong bộ máy.“Chống tham nhũng là việc cần phải làm, làm quyết liệt và mạnh mẽ hơn; loại bỏ những kẻ sâu dân, mọt nước để bộ máy được sạch sẽ hơn”.
Vấn đề đáng nói là phải thu hồi cho bằng được tài sản mà những kẻ tham nhũng đã chiếm đoạt và trục lợi. Ông Sự cho rằng chủ trương kê khai tài sản của quan chức là việc cần phải làm và việc kê khai đó phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ sự trung thực trong việc kê khai, đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập của các đối tượng trong diện kê khai. Chống tham nhũng muốn bền thì phải minh bạch, công khai bằng hệ thống pháp luật, bằng định chế.
Việc chống tham nhũng dựa vào quyết tâm là cần thiết nhưng chưa đủ, còn phải bằng những qui định chặt chẽ của pháp luật. Nếu chỉ dựa vào quyết tâm của những cá nhân thì việc chống tham nhũng sẽ không bền, bởi vì không có gì đảm bảo rằng những cá nhân thay thế những người đang chống tham nhũng quyết liệt sẽ tiếp tục giữ được tinh thần đó. Do đó cần phải có những qui định của luật pháp để bất cứ ai tham gia bộ máy cầm quyền đều phải thực hiện và chấp hành.
Tham nhũng nhờ quyền lực. Muốn chống tham nhũng phải kiểm soát được quyền lực. Phải có cơ chế kiểm soát quyền lực. Quyền lực thuộc về nhân dân, cho nên phải có cơ chế bằng luật định để nhân dân giám sát quyền lực. Không kiểm soát được quyền lực thì sẽ dẫn đến tha hoá quyền lực và chính sự tha hoá là nguyên nhân sinh ra lợi ích nhóm gây tổn hại cho đất nước, mất lòng tin của nhân dân.
Cùng với việc làm trong sạch bộ máy, cần phải thay đổi nếp nghĩ và cách làm trong công tác cán bộ. Chấm dứt ngay tình trạng con ông cháu cha và tình trạng “dắt díu” người thân vào bộ máy công quyền . Cái gọi là “ quy trình “ trong công tác tác cán bộ còn quá nhiều điều bất cập ; một số người đã lợi dụng quy trình để làm chuyện bậy bạ “ mua chức ,bán quyền”. Phải biết chọn người “ hiền” người “tài” theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng, tránh thiên kiến, để ai cũng có thể có điều kiện tham gia quản trị xã hội, quản trị đất nước. Muốn xây dựng một chính phủ kiến tạo, một chính quyền liêm chính phải có đội ngũ cán bộ có lòng tự trọng, trách nhiệm, tận tụy, thực sự vì dân, không mị dân, có kiến thức, am hiểu công việc, có kiến thức năng lực quản trị, biết lắng nghe cuộc sống, tôn trọng thực tiễn và thượng tôn pháp luật.
Với một cơ chế minh bạch cùng với bộ máy qui tụ được người hiền, người tài thì sẽ thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và tạo được niềm tin trong nhân dân.
Kết thúc phần phát biểu của mình, nguyên bí thư thành ủy Hội An nhận xét chủ đề thảo luận khá rộng và có nhiều suy nghĩ, ý kiến khác nhau nhưng với trách nhiệm một công dân ông xin được góp một tiếng nói trong một giới hạn có thể.
Tư duy tích cực
Lần đầu tiên trong cuộc Tọa đàm mùa xuân mà Người Đô thị có tham vọng tổ chức định kỳ xuất hiện một khách mời nước ngoài là ông Joe Woolf, đến Sài Gòn năm 1991 với vai trò nhân viên của một công ty dầu khí của Anh. Trên mảnh đất này, ông tìm được một nửa của mình là giảng viên khoa tiếng Anh thuộc Đại học Tổng hợp TP.HCM. Cũng chính người phụ nữ này mời ông tới lớp, dạy tiếng Anh cho sinh viên của cô ấy. Ông bắt đầu tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam thông qua giao tiếp với những bạn trẻ. Mặc dù vậy, ông Joe thừa nhận mình không phải là một học sinh ưu tú trong việc học tiếng Việt. Người hỗ trợ ngôn ngữ cho ông tại buổi tọa đàm là TS. Phạm Xuân Hoàng Ân.
“Việt Nam đã thay đổi rất nhiều kể từ năm 1991”, ông Joe mở lời. Thời điểm đó, nền kinh tế đối mặt với rất nhiều khó khăn. Theo ông, đấy là hệ quả của chiến tranh và chính sách cấm vận từ Hoa Kỳ. Có lẽ là người nước ngoài nên ông không biết còn một nguyên nhân khác nữa là sự sai lầm về đường lối kinh tế tập trung bao cấp. Người dân nghèo khó nhưng tự trọng, đùm bọc nhau cùng vươn lên. Ấn tượng ban đầu ấy khiến ông xúc động. Về nước một thời gian sau khi công ty rút khỏi Việt Nam, ông quyết định thôi việc, quay lại Sài Gòn khởi nghiệp.
Trong phạm vi hiểu biết của ông Joe, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Ngày nay, nhiều người không còn phải lo chuyện cơm ăn áo mặc, chỗ ở, mà bắt đầu có nhu cầu về những vấn đề lớn hơn, chẳng hạn như câu chuyện về niềm tin đang được thảo luận. Những chuyện không hay xảy ra ở đâu đó được người đàn ông phương Tây này tiếp cận khá tích cực: “Các bạn đủ vững chãi, đủ mạnh để cất lên tiếng nói, bày tỏ quan điểm cá nhân. Các bạn dám đối mặt, đối đầu với những bức xúc trong xã hội và tìm cách giải quyết vì sự tiến bộ của Việt Nam”.
Bày tỏ “niềm tin mãnh liệt” vào thế hệ trẻ, ông Joe cho biết doanh nghiệp của mình hiện có 350 nhân viên, trong đó có rất nhiều sinh viên ngành kiến trúc, kỹ thuật mới tốt nghiệp. Cũng như thế hệ sinh viên cách nay 25 năm, họ ham học hỏi, làm việc cật lực, gìn giữ những giá trị truyền thống. Mỗi khi đất nước bị thiên tai, họ tổ chức những đêm nhạc từ thiện, quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiệt hại. Xã hội có thể chưa hoàn hảo như kỳ vọng. Kinh tế đi xuống ở đâu đó khiến nhiều người bi quan. Tuy nhiên, về quan niệm cá nhân, ông Joe chia sẻ “thích sống bên cạnh những người lạc quan”, cùng nhau hợp tác và phát triển. Đấy cũng là một cách thiết thực đóng góp cho Việt Nam.
Góc nhìn của vị khách người Anh kéo nhạc sĩ Dương Thụ hào hứng quay trở lại với cuộc tọa đàm dù “không lạc quan quan như ông Joe”. Xới lại vấn đề khủng hoảng niềm tin, ông Thụ tiếp cận nó như một tiến bộ xã hội. Muốn dựng lại niềm tin là phải không tin những gì không đáng tin nữa. Theo ông, nguyên nhân của đổ vỡ niềm tin, đức tin trong nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, giáo dục cho đến truyền thông xuất phát từ thể chế. Khẳng định thể chế không thay đổi không thể gầy dựng lại niềm tin, nhưng ông Thụ cũng thừa nhận rằng “thể chế nằm ngoài khả năng của chúng ta”. Và, mỗi người tự phải biết tin vào chính mình bằng cách tham gia tạo ra những giá trị nuôi dưỡng niềm tin.
Đồng cảm với ông Joe góc nhìn về giới trẻ, ông Thụ phê bình tư duy đám đông. Không phải giới trẻ đều hỏng hết. Ông nói say sưa về những bạn trẻ văn minh mà ông có nhiều dịp tiếp xúc. Được đào tạo bài bản ở phương Tây, các bạn về nước làm nhạc. Không vì tiền. Không vì danh vọng. Không tham gia giới giải trí. Các bạn chỉ sáng tác những gì mình thích. Nhiều tác phẩm có giá trị mà ông Thụ thẳng thắn rằng “vượt qua thế hệ chúng tôi”.
Tin vào số ít những người trẻ là thông điệp mà ông chủ Salon Văn hóa Cà phê Thứ Bảy gửi gắm.
Dựng lại niềm tin - kỳ 3: Tiếng kèn dân sự
23:18 | Thứ sáu, 02/03/2018
Thành viên trẻ nhất trong danh sách khách mời là chị Phạm Thị Hương Giang (Jang Kều). Dường như nhà hoạt động xã hội này có niềm tin “đủ xài”. Bằng không, chị và các cộng sự, đều tham gia dự án bán thời gian, khó thể dựng được 523 căn nhà sau 4 năm triển khai.
“Nhà chống lũ (NCL) không xây nhà tình thương”, chị Giang nhập cuộc. Đối tượng hỗ trợ hướng tới là những hộ trong diện nghèo, có nhà bị sập do bão lụt. Trước khi khởi công, bốn bên gồm NCL, hộ dân, đại diện chính quyền cơ sở và nhà thầu cung ứng vật liệu tại địa phương cùng ký vào một bản cam kết. Ở mỗi tỉnh, NCL sẽ thương thảo với một nhà thầu để được cung ứng vật liệu có mức chiết khấu dành cho tổng đại lý. Tiền mua vật liệu NCL thanh toán trực tiếp cho nhà thầu, định kỳ hằng tháng một lần.
Bản cam kết đầu tiên ký ở Hà Tĩnh. Đấy là một ngôi nhà gỗ xiêu vẹo nằm ngay vùng rốn lũ. Bà cụ chủ nhà sống một mình. Trên gác xép để sẵn một chiếc quan tài. Bà cụ giải thích trước đó ba năm, ông bà trốn lũ trên xép. Ông qua đời giữa mênh mông biển nước. Bà không luộc được trứng, chỉ kịp nấu chén cơm nhét vào miệng chồng. Hơn 10 ngày sau, lũ rút. Bà cuộn xác chồng trong manh chiếu, mang đi chôn.
Dành dụm tiền hoa lợi và con cháu biếu trong ba năm, bà mua sẵn quan tài, phòng xa. Nếu kịch bản của người chồng xấu số lặp lại với mình, hàng xóm giúp cho cái huyệt. Đến cái chết cũng chông chênh. NCL hỗ trợ 25 triệu đồng. Xác nhà bán được 8 triệu đồng. Vẫn thiếu tối thiểu 17 triệu đồng. Chị Giang điện thoại cho ba cô con gái của bà cụ, thuyết phục mỗi người góp 6 triệu đồng. Túng thiếu thì đi vay. “Vẫn có thể dựng nhà mới từ con số 0”, chị Giang nhấn mạnh.
Làm việc tử tế vô cùng gian nan. Chẳng hạn như chương trình xây dựng nhà phao ở rốn lũ Quảng Bình. Khi dựng xong 45 căn nhà, nhóm vận động tài trợ phao từ một doanh nghiệp nhập khẩu từ Nga. Tuy nhiên, số lượng đợt đó chỉ đủ cung cấp cho 20 căn. Nhóm đề xuất với người dân trang bị trước cho 20 gia đình khó khăn nhất. Người dân phản đối gay gắt. Họ yêu cầu chia đều số phao cho từng nhà. Lũ không phân biệt hộ nghèo hay cận nghèo. Chết thì cùng chết mới công bằng.
“Những thành viên của NCL sống trong sợ hãi suốt mùa lũ năm ấy. Chỉ cần một ngôi nhà sập, chúng tôi sẽ mất sạch uy tín, không còn cơ hội để dựng thêm nhà mới”, chị Giang giãi bày.
Chưa kể còn rất nhiều “những ngôi nhà bước vào rồi lại bước ra” vì gia chủ không trung thực. Nước mắt rơi lã chã nhưng các thành viên NCL không được phép ngã lòng. Sẽ không làm được gì khi đánh mất niềm tin. Không ai làm gì xã hội sẽ không chuyển động.
Câu chuyện cuối cùng là một trường hợp ở Vũ Quang, Hà Tĩnh. Chủ nhà, áng chừng hơn chị Giang khoảng 20 tuổi, kêu chị Giang bằng “bác”, xưng “con”. Động viên mãi anh mới dám xây. Trong một chuyến khảo sát của NCL tại xã bên, ông ấy hay tin, chạy qua thăm. “Dúi cho tôi củ khoai luộc, ông nói Giang ơi, anh làm xong nhà rồi. Ít hôm nữa anh sẽ đón bố về phụng dưỡng”, chị Giang kể. Tâm thế dúm dó trong lần tiếp xúc đầu tiên không còn nữa. Trong thâm tâm người sáng lập, ngôi nhà là cánh cửa, khơi dậy niềm tin để những người thụ hưởng dựng đời mới.
523 ngôi nhà là 523 bản thiết kế. Nhiều kiến trúc sư tên tuổi chung tay cùng NCL phải dẹp bỏ “cái tôi” tôi để thực hiện yêu cầu thiết kế: đảm bảo an toàn, tiết kiệm chi phí và có thể mở rộng không gian. Quyền quyết định cuối cùng vẫn là gia chủ. Thế nên mới có những ngôi nhà bôi màu xanh, đỏ, tím, hường. Bạn bè chất vấn người sáng lập NCL: “Là người duy mỹ, tại sao Giang chấp nhận những phương án thiết kế kỳ cục đến thế?”. Trả lời: “Mình không ở. Những người thụ hưởng ở”. Mỹ cảm mỗi người mỗi khác. Áp đặt chắc chắn thất bại. Nhưng đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản giữa khu vực dân sự và Nhà nước mà đại diện là quỹ xây dựng nhà chống bão lụt mà Nhà nước giao cho Bộ Xây dựng quản lý 7.600 tỉ đồng. Duy ý chí khiến chương trình này không tiêu hết được tiền. Thiết kế trăm cái như một, không quan tâm đến nhu cầu sử dụng, yếu tố văn hóa, khả năng tài chính… của người thụ hưởng.
Nguyên tắc của NCL là chỉ đóng góp 50% chi phí xây dựng tối thiểu mỗi căn nhà, tương ứng 25-35 triệu đồng. Muốn làm nhà lớn hơn, gia chủ tự bỏ thêm tiền. Đến nay, những nhà hảo tâm đã chuyển vào tài khoản cá nhân của chị Giang khoảng hơn 25 tỉ đồng. Nhưng tổng chi phí xây dựng 523 căn nhà lên đến gần 80 tỉ đồng. Rõ ràng, niềm tin then chốt không đến từ những mạnh thường quân, mà chính là những người thụ hưởng. “Nếu người dân không tin NCL sẵn sàng chung tay với họ xây nhà mới, nhiều tiền cũng chẳng có ý nghĩa gì”, chị Giang nói. Cách làm của NCL là tiến hành khảo sát thực địa, làm cơ sở để xây dựng chương trình hành động khả thi rồi mới tổ chức huy động tài trợ.
Con số 523 căn nhà khá khiêm tốn so với 150.000 căn nhà bị bão, lũ cuốn trôi, chưa kể hằng năm thiên tai đưa thêm năm, bảy ngàn căn nhà vào danh sách bị trôi hoặc sập đổ hoàn toàn. Thừa hiểu không bao giờ có thể đáp ứng hết được nhu cầu thực tế, nhưng NCL vẫn không ngừng chuyển động. Ngoài lòng hảo tâm của những cá nhân, NCL dần có thêm nhiều bạn đồng hành từ khu vực doanh nghiệp, sự phối hợp của chính quyền địa phương. Bởi việc tử tế có thể lan tỏa từ những nhóm rất nhỏ. Bởi niềm tin rằng xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.
Xây nhà mới là cấu phần trong chương trình hành động thứ nhất hướng tới mục tiêu tổng thể là cộng đồng bền vững. Tiếp đến là ánh sáng, vệ sinh, nước sạch. Chương trình hành động thứ hai là môi trường bền vững, tập trung giáo dục, khuyến khích trồng, chăm sóc cây xanh. Sau cùng là nâng cao năng lực con người, trang bị những kỹ năng ứng phó với thiên tai và sống hài hoà với thiên nhiên và môi trường.
Hành trình của NCL là một hoạt động dân sự thuần túy xứng đáng, chủ động tập hợp những thành viên có khát vọng thiện nguyện, tham gia giải quyết những trục trặc của cộng đồng mà Nhà nước và thị trường chưa thể hoặc không có động cơ vươn tới.
Năm 2017 xảy ra nhiều cuộc va chạm liên quan đến vấn đề môi trường. Đà Nẵng trở thành điểm nóng sau khi bản Quy hoạch tổng thể Khu Du lịch quốc gia Sơn Trà được công bố. Âm mưu trục lợi đại ngàn vô hình trung thúc đẩy sự hình thành một thế lực mới ở khu vực dân sự với mục tiêu có hành động cụ thể là bảo vệ Sơn Trà trong bối cảnh cả hệ thống Đảng bộ lẫn chính quyền địa phương nhiều chuyện lùm xùm. Hạt nhân của lực lượng này là ông Huỳnh Tấn Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Đà Nẵng.
Việc công bố bản quy hoạch này trở thành lá bùa để người ta tăng tốc, xây dựng ồ ạt trên lá phổi xanh của người dân Đà Nẵng. Tình thế vô cùng cấp bách. “Ba ở đâu mà không giữ Sơn Trà cho con?” - câu hỏi thảng thốt của cô con gái đè nặng lên vai ông Vinh. Nếu mình không nói thì ai nói? Hỏi cũng là trả lời. Tiếng kèn đơn lẻ nhưng dõng dạc từ mặt trận Đà Nẵng tạo ra làn sóng ủng hộ với hơn 14 ngàn chữ ký của người dân trong và ngoài nước. Dung môi tạo nên cuộc hòa nhịp tự phát là niềm tin vào chính nghĩa. Đốm lửa thắp lên từ một que diêm tạo thành đám cháy, lan đến cả nghị trường. Sơn Trà không còn là câu chuyện của riêng Đà Nẵng.
Theo ông Vinh, cái gọi là công trình khách sạn phục vụ du lịch trên bán đảo Sơn Trà thực chất là khoảng 2000 căn biệt thự nghỉ dưỡng, được rao bán với mức giá dao động từ 75 tỉ đồng đến 115 tỉ đồng/căn. Từ hơn 10 năm trước, người ta đã muốn biến Sơn Trà thành của riêng. Làm được thì ăn được. Câu nói truyền khẩu trong dân gian tác động, chi phối niềm tin xã hội, nhưng đồng thời cũng biểu hiện tâm trạng bất lực. “Ở Đà Nẵng có những cây đa cây đề tán phủ rất rộng. Dù đã khuất núi nhưng cái bóng vẫn còn”, ông Vinh đụng đến “vấn đề lịch sử để lại”. Có dự án gần trăm hécta mà người ta chỉ cần hai đêm là hoàn tất thủ tục từ khâu trình đến phê duyệt. Bất chấp dư luận xã hội, bước qua các quy định pháp lý cũng bởi niềm tin về khả năng khuynh loát. Nếu cộng đồng im lặng, có lẽ mặt trời đã bị che lấp bằng một bàn tay.
Hiệu ứng xã hội đụng chạm đến miếng mồi của những nhóm lợi ích. Ông Vinh trở thành cái gai mà người ta muốn nhổ bỏ. Hăm dọa có. Tác động có. Sức ép đến từ nhiều phía. Bị đặt vấn đề nghỉ làm hiệp hội, ông đáp trả chuyện làm hay nghỉ là do tập thể quyết định. Trong môi trường doanh nghiệp (ông Vinh là CEO của một resort 5 sao tại Đà Nẵng - PV) cũng có ý kiến e ngại những phát biểu của ông có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ với lãnh đạo địa phương. Khẳng định ưu tiên cho Sơn Trà, ông Vinh chấp nhận khả năng thôi việc. Quan điểm bảo vệ Sơn Trà tiếp tục được thể hiện nhất quán tại hội thảo ở Hà Nội do Tổng cục Du lịch Việt Nam tổ chức.
Đối thoại với Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, ông Vinh phản đối bê tông hóa Sơn Trà. Bình luận về quan điểm “giữ nguyên Sơn Trà chỉ để ngắm thì quá uổng” của một sĩ quan biên phòng, ông Vinh khẳng định “không cực đoan đến mức rào lại, không đụng đến”. “Khai thác du lịch cần thông minh hơn, đảm bảo tuân thủ Thông báo chung Cape Town- Nam Phi về phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm với môi trường, tự nhiên và xã hội mà Việt Nam đã ký cách đây hơn hai thập niên”, ông Vinh đánh giá cao vai trò của mạng xã hội. Minh bạch thông tin tạo sức ép lên chính quyền các cấp. Sơn Trà tạm yên sau khi Chính phủ yêu cầu ngưng mọi hoạt động xây dựng, tiến hành thanh tra toàn diện.
Trong một ý kiến khác, liên quan đến chủ đề thảo luận, ông Huỳnh Tấn Vinh cho rằng: Năm 2017 với những thông điệp và hành động phần nào quyết liệt của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, "Người đốt lò của năm" đã nhen nhóm một tia lửa hy vọng, niềm tin vào công cuộc chống tham nhũng của người đứng đầu Đảng CSVN. Tuy nhiên, tôi nghĩ bên cạnh điều đó, vấn đề là phải xây dựng một định chế kiểm soát quyền lực để những cán bộ thi hành công vụ không thể lạm dụng quyền lực để mưu lợi cho cá nhân, gia đình và phe cánh của mình. Định chế đó phải công khai, minh bạch và có sự giám sát của cộng đồng xã hội. Hãy dụng nhân như dụng mộc, giữ để gỗ đừng biến thành củi hơn là tập trung đưa củi vào lò.
Nếu làm được điều đó là góp một phần quyết định để “dựng lại niềm tin”.
Dựng lại niềm tin - kỳ cuối: Tháo chuông phải từ người buộc
“Niềm tin bền vững phải đến từ hai phía”, ông Tự Anh chuyển sang mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, chủ đề mà ông đặc biệt quan tâm trong công tác nghiên cứu. Sau hơn ba thập niên Đổi mới, Nhà nước vẫn chưa thực tâm tin thị trường cũng như khu vực tư nhân. Bằng chứng là mỗi khi không kiểm soát được, mỗi khi lúng túng thì Nhà nước lập tức quay trở lại hệ điều hành cũ.
TS Vũ Thành Tự Anh là người đóng góp ý kiến cuối cùng với tư cách cá nhân. Bình luận về chủ đề thảo luận, ông Tự Anh cho rằng ban tổ chức có lẽ không có ý đồ dựng lại một niềm tin có tính phổ quát, mà cần có độ mở nhất định: “Khi chỉ có một niềm tin duy nhất đúng thì niềm tin ấy chắc chắn sẽ sai”, ông Tự Anh cho rằng không tin vào chính mình là cách dễ nhất để đánh mất niềm tin.
Theo ông Tự Anh, để sống không ai không cần tới niềm tin, vì niềm tin là một dưỡng chất quan trọng cho cuộc sống của mỗi người. Niềm tin vừa là cảm tính nhưng đồng thời cũng là lý tính, và chắc chắn là niềm tin không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, mà chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác theo thời gian, hoàn cảnh…
“Muốn dựng lại niềm tin thì phải tạo dựng các điều kiện để “dưỡng chất” niềm tin tồn tại được”, ông Tự Anh nhấn mạnh trách nhiệm của hệ thống chính trị trong việc gầy dựng lại niềm tin với nhân dân, doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, con đường ngắn nhất để chủ thể đánh mất niềm tin là “nói không đi đôi với làm”.
Từ quan niệm đó, ông Tự Anh quan sát tác động của niềm tin đối với kinh tế. Hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ thông qua sự tương tác giữa người với người. Là một phần của vốn xã hội, niềm tin giúp giảm chi phí giao dịch.
Theo đó, hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn, mở rộng cơ hội cho con người. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ không dám thực hiện giao dịch khi không biết chắc đối tác có thanh toán đầy đủ hàng hóa và dịch vụ mà mình cung ứng hay không, hoặc giả phải rất vất vả đòi đủ số tiền. Động cơ khuyến khích doanh nghiệp khi ấy là tư duy ngắn hạn, tâm lý đánh quả… Nguy hại hơn, việc một rừng luật không bảo vệ được quyền lợi chính đáng còn khuyến khích người ta sử dụng luật rừng.
Niềm tin là một nhân tố quan trọng giúp điều chỉnh hành vi. Thế nhưng trót tin vào điều không đúng có thể khiến chủ thể hành xử tiêu cực. Hơn nữa, khi niềm tin đổ vỡ, chủ thể bị tổn thương nghiêm trọng, tất yếu sẽ phát sinh năng lượng tiêu cực. Hệ quả là chủ trương hay chính sách đúng cũng không thể phát huy được khi niềm tin của người dân và doanh nghiệp bị xói mòn.
“Niềm tin bền vững phải đến từ hai phía”, ông Tự Anh chuyển sang mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, chủ đề mà ông đặc biệt quan tâm trong công tác nghiên cứu. Sau hơn ba thập niên Đổi mới, Nhà nước vẫn chưa thực tâm tin thị trường cũng như khu vực tư nhân. Bằng chứng là mỗi khi không kiểm soát được, mỗi khi lúng túng thì Nhà nước lập tức quay trở lại hệ điều hành cũ.
Tuy nhiên, Nhà nước lại rất cần thị trường, cần doanh nghiệp tư nhân để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết những vấn đề nằm ngoài khả năng của Nhà nước. Nhưng muốn dựng lại niềm tin thì Nhà nước lại đụng phải bức tường ý thức hệ. Đấy cũng chính là thế lưỡng nan của Nhà nước. Mâu thuẫn giữa ý thức hệ và nhu cầu cải cách thị trường tạo ra sự dùng dằng về mặt quyết sách. Nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng trên dưới 6,5% như hiện nay là nhờ vào sức sống dẻo dai của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, trong điều kiện thể chế hiện nay, lực lượng này lại không thể lớn lên được.
Cải cách nửa vời tất yếu sẽ dẫn đết kết quả nửa vời, ông Tự Anh kết luận.
Box:
NS Dương Thụ: “Khủng hoảng niềm tin là một tiến bộ xã hội. Muốn dựng lại niềm tin, phải không tin những gì không đáng tin nữa”.
Bà Phạm Chi Lan: “Hệ thống sợ hãi khu vực tư nhân phát triển đến một mức nào đó sẽ đòi hỏi thêm những quyền khác, chẳng hạn như tham gia vào những quyết sách, thậm chí tiến đến nhu cầu chia sẻ những quyền chính trị”
Ông Huỳnh Tấn Vinh: “Môi trường là vấn đề sống còn. Dù đụng chạm đến nhiều thế lực nhưng Sơn Trà không dính dáng đến chính trị, là cơ hội để cộng đồng biểu đạt ý kiến mà nhiều khi khó thể nói công khai ở nơi khác”
Chị Phạm Thị Hương Giang: “Tôi không kỳ vọng có niềm tin tuyệt đối. Nhưng niềm tin có thể nuôi dưỡng được”
TS Vũ Thành Tự Anh: “Điều doanh nghiệp sợ là sự bất định. Khi không biết ngày mai, ngày mốt sẽ như thế nào thì họ buộc phải thủ, phải co lại, hoặc chạy ra nước ngoài”
Thượng Tùng ghi -
Comments